Nông nghiệp đóng vai trò là “trụ chính” – động lực phát triển kinh tế. Nhưng nông nghiệp Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn và thách thức trên con đường hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi phải có hướng đi mới để thay đổi toàn diện. Đứng trước nhu cầu cấp thiết đó, chuyển đổi số trong nông nghiệp là tất yếu. Bài viết dưới đây sẽ đề cập đến cơ hội và thách thức của ngành nông nghiệp khi thực hiện chuyển đổi số.
Chuyển đổi số trong nông nghiệp được hiểu là quá trình tích hợp và ứng dụng công nghệ số (dữ liệu lớn, điện toán đám mây, IoT,… ) vào tất cả hoạt động của ngành nông nghiệp, làm thay đổi phương thức quản lý, quy trình sản xuất và tiêu thụ từ truyền thống sang hiện đại, thông minh.
Chuyển đổi số trong nông nghiệp sẽ đem đến nhiều cơ hội như:
Chuyển đổi số trong nông nghiệp giúp ngành nông nghiệp giảm thiểu rủi ro và thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu: nước biển dâng, hiện tượng El Nino,…
Trên thực tế, biến đổi khí hậu với sự gia tăng nhiệt độ, thời tiết khắc nghiệt đã tác động trực tiếp đến tất cả lĩnh vực của ngành nông nghiệp như: giảm diện tích đất, giảm lượng nước ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp; cường độ bão gia tăng, nước biển dâng và dịch bệnh bùng phát; giảm đa dạng sinh học…
Kết quả tất yếu là giảm năng suất, chất lượng, thậm chí mất thu nhập trong nông nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ AI (trí tuệ nhân tạo), phân tích dữ liệu vào quản lý rủi ro sẽ giúp cảnh báo sớm (72 giờ trước khi bão đi qua), từ đó, các cấp, các ngành, nông dân địa phương sẽ có các biện pháp ứng phó, hạn chế rủi ro do biến đổi khí hậu, sản xuất nông nghiệp hiệu quả và bền vững hơn.
=> Xem thêm: Giải pháp chuyển đổi số trong nông nghiệp
Chuyển đổi số trong nông nghiệp giúp ngành nông nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Việc ứng dụng Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn và công nghệ sinh học đã giúp phân tích dữ liệu về môi trường, loại đất, cây trồng và giai đoạn trưởng thành của cây trồng.
Dựa trên các dữ liệu được cung cấp, người sản xuất sẽ đưa ra các quyết định phù hợp (bón phân, tưới nước, phun thuốc trừ sâu, thu hoạch …), từ đó giảm chi phí, giảm ô nhiễm tài nguyên nước và đất, bảo vệ đa dạng sinh học.
Thực tế cũng cho thấy, việc ứng dụng kỹ thuật số vào sản xuất nông nghiệp đã giảm một nửa chi phí và công sức lao động, giảm 50% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, tăng năng suất lên 30%, từ đó nâng cao thu nhập của nông dân. Hơn nữa, việc tích hợp và ứng dụng công nghệ số vào sản xuất giúp người tiêu dùng có thể truy cập, giám sát các thông số này theo thời gian thực và yên tâm về chất lượng nông sản.
Ngoài ra, ứng dụng kỹ thuật số trong nông nghiệp góp phần tăng cường liên kết giữa người sản xuất và người tiêu dùng, giữa cung và cầu, hạn chế tình trạng “được mùa, mất giá”, từ đó nâng cao sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả và bền vững hơn.
Việc chuyển đổi số trong nông nghiệp giúp cho việc quản lý và điều hành của ngành nói chung và doanh nghiệp nói riêng hiệu quả hơn. Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc ứng dụng công nghệ thông tin và số hóa trong điều hành, quản lý sẽ giúp ra quyết định nhanh hơn, chính xác hơn nhờ hệ thống thông tin báo cáo kịp thời, tăng hiệu quả quản lý và hiệu quả hoạt động.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh nông sản, công nghệ số cũng đang giúp tăng hiệu quả hoạt động, giảm chi phí vận hành và tiếp cận nhiều khách hàng hơn. Nhờ đó, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao.
Vì vậy, chuyển đổi số trong nông nghiệp được xác định là tạo môi trường, lấy nông nghiệp số sinh thái làm nền tảng, xây dựng thể chế, thúc đẩy chuyển đổi từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp” với mục tiêu cuối cùng là phát triển hiệu quả và bền vững nông nghiệp.
=> Xem thêm: 5 chiến lược chuyển đổi số quốc gia hiệu quả cho công ty
Bên cạnh một số cơ hội trong hành trình chuyển đổi số trong nông nghiệp, việc ứng dụng kỹ thuật số vào lĩnh vực nông nghiệp còn có những hạn chế như: không đồng bộ, khá rời rạc, chủ yếu dựa vào sáng kiến riêng lẻ của một số công ty, địa phương,… Việc ứng dụng kỹ thuật số vào nông nghiệp còn hạn chế, đến hết năm 2021 mới có khoảng 2.200/19.000 HTX nông nghiệp thực hiện chuyển đổi số, với gần 2% tổng số hộ nông dân được đào tạo về công nghệ. Những hạn chế này xuất phát từ các trở ngại sau:
Việc ứng dụng công nghệ số trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam còn khá mới nên nhận thức của hầu hết các địa phương, doanh nghiệp và đặc biệt là người nông dân còn hạn chế, chưa thấy được vai trò, tầm quan trọng và sức ép của việc ứng dụng công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp. Điều này gây khó khăn cho việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ số trong ngành nông nghiệp.
Việc thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng, hệ thống dữ liệu số hóa đồng bộ, hiện đại (cây trồng, vật nuôi, các văn bản chính sách đã được số hóa). Tuy nhiên, hạ tầng kết nối của nước ta còn lạc hậu, chưa đồng bộ, chi phí 3G, 4G còn cao, chưa tạo cơ hội cho nông sản vùng sâu, vùng xa kết nối trực tiếp với hệ thống thương mại điện tử. Do đó, việc tiếp cận công nghệ số và ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp và doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Hệ thống dữ liệu để tích hợp và chia sẻ tồn tại ít hoặc không đáp ứng được các yêu cầu về kết nối, truyền thông. Hệ thống dữ liệu của Bộ chưa tuân thủ khung kiến trúc chính phủ điện tử, chủ yếu vẫn là phiên bản 1.0.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp, hộ sản xuất phần lớn chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi số do chưa có cơ sở dữ liệu lớn phục vụ sản xuất, thiếu minh bạch về nguồn gốc sản phẩm và thiếu kết nối chia sẻ thông tin của các giai đoạn: sản xuất, quản lý, logistics, thương mại nông sản.
Có thể nói, rào cản này đang là trở ngại lớn cho việc triển khai công nghệ số trong ngành nông nghiệp Việt Nam trong những năm tới.
Trong nông nghiệp số, ngoài tư liệu sản xuất truyền thống, người nông dân còn phải sử dụng dữ liệu và công nghệ số. Vì vậy, ngoài kỹ năng sản xuất, người nông dân cần thêm kiến thức và kỹ năng về kinh doanh, công nghệ, kỹ thuật số và công nghệ sinh học… Tuy nhiên, số lượng nông dân ở nước ta có trình độ khoa học công nghệ còn ít.
Năm 2020, chỉ có 16,3% lao động nông thôn được đào tạo nghề và kỹ thuật. Ngoài ra, hầu hết nông dân chưa được đào tạo bài bản về chuyển đổi số nên khó thao tác và đánh giá hiệu quả. Có thể nói rằng, rào cản này là trở ngại lớn nhất cho chuyển đổi số nông nghiệp trong giai đoạn tới.
Chính sách chuyển đổi số trong nông nghiệp chưa phù hợp và kịp thời so với thực tế. Ví dụ, chính sách tín dụng hỗ trợ nông nghiệp công nghệ cao mới chủ yếu dành cho doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp cũng khó tiếp cận do thủ tục rườm rà. Hơn nữa, chưa có chính sách khuyến khích giao dịch điện tử tiếp cận khách hàng quốc tế…
Để chuyển đổi số trong nông nghiệp được thuận lợi, cần có sự tham gia, phối hợp của các cơ quan ban ngành từ Trung ương đến địa phương và đặc biệt là người nông dân phải sẵn sàng thay đổi cách nghĩ, cách tiếp cận với khoa học công nghệ. Vì vậy, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các bộ, ban ngành liên quan và đặc biệt là các địa phương cần tập trung thực hiện theo nhóm giải pháp sau:
Trước tiên, phải giúp các địa phương, công ty và đặc biệt là nông dân hiểu được vai trò, tầm quan trọng của việc ứng dụng kỹ thuật số vào sản xuất nông nghiệp. Chỉ khi đó thì các địa phương, công ty và nông dân mới chủ động học hỏi và ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, kinh doanh nông nghiệp.
Để làm được điều này, cần đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, các hội nghị, hội thảo, các mô hình khuyến nông về vai trò và lợi ích của việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý, sản xuất và tiêu thụ nông sản trong bối cảnh hiện nay.
Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức của các chủ thể sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, đặc biệt là người nông dân, tạo tiền đề cho quá trình chuyển đổi số của ngành nông nghiệp.
Giải pháp này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và ứng dụng kỹ thuật số vào lĩnh vực nông nghiệp.
Để đạt được điều này, Bộ NN & PTNT đang phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông phát triển hạ tầng, kết nối Internet băng rộng chất lượng cao (hạ tầng mạng di động 4G, 5G, hạ tầng kết nối IoT) đến các thôn, bản nhằm nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận dịch vụ viễn thông của người dân; cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ viễn thông, giúp nông dân sử dụng thiết bị máy tính miễn phí (cung cấp Internet không dây) tại các trung tâm xã, điểm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, điểm du lịch nông thôn.
Tiến tới, phổ cập hạ tầng kỹ thuật số với mục tiêu mỗi hộ nông dân đều có điện thoại thông minh và cáp quang để truyền thông tin kỹ thuật số đến nông dân.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống dữ liệu nông nghiệp, bao gồm dữ liệu về đất đai, cây trồng, vật nuôi, vùng canh tác, người sản xuất, lượng nông sản, dịch vụ và số hóa các văn bản hành chính của Bộ.
Để đáp ứng yêu cầu này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu ngành, xây dựng bản đồ số trên nền tảng – dạng dữ liệu đồng bộ để kết nối, chia sẻ và cung cấp dữ liệu mở…
Đồng thời, khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp số hóa quy trình sản xuất, hướng tới tích hợp và minh bạch hóa sản phẩm bằng hệ thống đọc mã QR.
Nâng cao trình độ, năng lực tiếp cận, giới thiệu công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp cho nông dân. Đầu tiên, các bộ ban ngành cần biên soạn, phổ biến nội dung chuyển đổi số, vận hành dịch vụ số an toàn trên không gian mạng, trong chương trình học các cấp.
Bên cạnh đó, cần phối hợp tổ chức các đợt tập huấn nhằm nâng cao trình độ công nghệ thông tin, chuyển đổi số, hỗ trợ truy xuất nguồn gốc và vận hành. Từ đó, người sản xuất sẽ nâng cao kỹ năng quảng bá sản phẩm, kỹ năng sống, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận trực tiếp với khách hàng, tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường, xu hướng tiêu dùng để tổ chức sản xuất hiệu quả.
Hằng năm, xây dựng và hoàn thiện các chính sách phục vụ chuyển đổi số trong nông nghiệp phù hợp, kịp thời, tạo động lực thúc đẩy chuyển đổi số ngành nông nghiệp đúng hướng, hiệu quả.
Chúng ta đang sống trong thời đại VUCA đầy biến động (Volatility), không chắc chắn (Uncertainty), phức tạp (Complexity) và mơ hồ (Ambiguity). Doanh nghiệp cần phải rút ngắn thời gian ra thị trường, tăng sự linh hoạt, khả năng thích ứng với những thay đổi nhanh chóng.
Agile (linh hoạt) là khung tư duy và làm việc giúp doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng và phản hồi với thay đổi, để đạt được thành công trong môi trường liên tục biến động, không chắc chắn.
Nhiều doanh nghiệp hàng đầu thế giới đã áp dụng và thành công với Agile. Agile không chỉ làm thay đổi diện mạo nền công nghệ mà đang lan tỏa mạnh mẽ trong rất nhiều lĩnh vực như nhân sự, tài chính, kinh doanh và sản xuất.
Bài viết liên quan:
Bạn đã đăng ký thành công
Xin cảm ơn bạn đã đăng ký nhận tư vấn
Xin cảm ơn bạn đã đăng ký
Mời bạn kiểm tra Email để tải tài liệu.